Vấn Đạo

23/05/2016 | Chuyên mục: VĂN . 1070 Lượt xem

sidebar_2Các ông Hiểu, Quyến và Hương tuy có đức tin trong sạch với giáo pháp nguyên thủy, nhưng tự trong thâm tâm, họ còn rất nhiều hoài nghi, thắc mắc. Hôm kia, họ tìm gặp riêng đại đức Hộ Tông tại liêu thất. Rồi một cuộc vấn đạo khá cao siêu đã xẩy ra.

Đầu tiên, ông Hiểu trình bày với đại ý rằng:

– Gia đình tôi và cả dòng tộc theo Phật giáo Đại thừa, ông chú, ông bác tôi ăn chay tháng bốn ngày, sáu ngày, tám ngày… Dường như các pho kinh sách như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Phổ Môn, Viên Giác… và các kinh luận của chư tổ như Pháp Bảo Đàn, Duy Thức, Trung Quán, Khởi Tín Luận… các vị ấy đều có nghiên cứu. Riêng Phổ Môn và Pháp Hoa thì họ luôn trì tụng. Riêng ông thân tôi, ngoài Nho học, Phật học, ông còn cả Tây học nữa nên tư tưởng khá phóng khoáng, ít thủ cựu, ít cố chấp, tôn trọng tự do tư tưởng của con cái. Lớn lên, tôi tu lung tung như hôm trước đã kể. Cũng có nghiên cứu sơ sơ các kinh điển Mahāyana nhưng tôi vẫn có cảm giác như đi lạc trong sương mù, rơi vào thế giới u u minh minh, không rõ tu tập như thế nào, lợi ích thực tế, hiện tiền ra sao? Các kinh luận ấy nó mơ hồ, thiên về suy luận, nghiêng nặng về siêu hình. Bất ngờ năm đó, tôi vớ được đâu đó cuốn “Tuệ giác của đức Phật” bằng Pháp ngữ, tôi như có được con mắt sáng…

Đại đức Hộ Tông cười:

– Ờ, tui nghe rồi, tui còn muốn nghe thêm nữa đây!

– Cho nên, hôm nay, chùa chiền cũng tạm ổn, chúng tôi cũng rảnh rỗi nên xin sư hoan hỷ chỉ giáo cho vài điểm mà tôi còn tối tăm. Bạn Quyến, bạn Hương đây cũng có mơ ước như thế!

– Dzâng, dzâng! Sở học cũng như sự tu tập của tui chưa có bao nhiêu, nhưng cũng xin ráng hầu các bạn, biết và thấy được chỗ nào, ngang đến đâu thì tui xin nói đến nơi đó!

Thế rồi, lần lượt các cụ đưa ra những câu hỏi.

Câu đầu tiên.

– Tôi vẫn chưa rõ về tuệ giác, mặc dầu trước đây tôi tâm đắc quyển sách “Tuệ giác của đức Phật”… Chữ tuệ giác mà Pháp dịch là “la sagesse” thì tôi e là không đúng, có phải?

Đại đức Hộ Tông nhè nhẹ gật đầu:

– Phải rồi, nó không đúng! Tui xin xác nhận là cái từ “la sagesse” còn nằm trong phạm trù lý trí. Còn “tuệ giác” là cái thấy trực tiếp của người đã giác ngộ, nó ở ngoài và ở trên lý trí. Độ trước tui đã muốn nói nhưng thấy chưa tiện. Nhưng cho tui được hỏi, bạn nghĩ sao mà thấy nó không đúng?

“La sagesse” theo nghĩa nào đi nữa, ví dụ nghĩa của nó là khôn ngoan, thông minh hay khôn khéo… thì tất thảy chúng đều thuộc phạm trù lý trí, cái vận hành của ý thức thường nghiệm. Mà cái tuệ giác của Phật phải vượt qua chúng. Nói cách khác, chắc hẳn nó không phải là cái thấy biết thường nghiệm qua mắt tai mũi lưỡi thân và ý?

– Đúng dzậy! Cái thấy biết thường nghiệm qua lục căn xúc đối với lục trần nó sẽ duyên sanh các cảm thọ, các ái, các hữu, các thủ, các hữu, sinh lão tử… Nói cách khác, vì là thường nghiệm nên đằng sau tưởng tri và thức tri là ký ức, hồi ức, thói quen, các chủng nghiệp, tùy miên kiết sử nên bao giờ cũng kéo theo phiền não và đau khổ.

– Vâng, Vâng! Điều này thì tôi biết. Có nghĩa là, tuệ giác không phải là cái thấy biết của tưởng tri và thức tri?

– Khoan! Chậm đã! Hãy nghe và hãy phân biệt cho kỹ đây! Tuệ tri là cái thấy biết của tuệ hay trí ; còn tuệ giác, giác tri còn được gọi là liễu tri là cái thấy biết của bậc đã giác ngộ. Những từ ấy chúng khác nhau rất vi tế, sâu nhiệm, phức tạp lắm, từ từ, chúng ta sẽ hiểu… từ từ… thôi!

Họ chăm chú lắng nghe. Rồi hỏi:

– Thế thì tuệ tri nó ở ngoài và ở trên tưởng tri và thức tri hay sao?

Đại đức Hộ Tông chợt cười:

– Đến chỗ này thì bắt đầu khó nói rồi đó.

– Tại sao?

– Vì nếu nói tuệ tri ở ngoài và ở trên tưởng tri và thức tri, không có nghĩa là tuệ tri không dính líu gì đến tưởng tri và thức tri! Nói chính xác hơn, nếu tưởng và thức kia được thanh lọc, làm cho trong sáng thì tuệ tri cũng từ đó mà ra, không hai, không khác đâu!- Chà! Khó hiểu rồi, khó nắm bắt rồi. Sư có thể cho những ví dụ cụ thể được không?

– Ờ, có thể ví dụ thì nó rõ ràng hơn. Ví dụ, khi ta nhìn ngắm một con cá đang bơi. Cái thấy biết tổng quát con cá là cái thấy biết của tưởng tri; nhưng các chi tiết, hình dáng lớn nhỏ, đường vân, màu sắc lấp lánh như thế nào, giá trị bán được mấy xu, mấy đồng là cái thấy biết của thức tri.

– Vâng, điều ấy thì tôi hiểu.

– Tưởng tri và thức tri thường bóp méo các hình ảnh bên ngoài làm cho tất thảy pháp đều bị biến đổi, không còn nguyện dạng, không còn trung thực nữa. Nói cách khác, tưởng tri và thức tri đã bị tình cảm thương ghét, buồn vui, tham sân gì đó hoặc nhận thức chủ quan của người nhìn ngắm làm cho sự thực bị che mờ đi.

– Xin cho nghe ví dụ!

– Ờ, ví dụ! Người ấy không nhìn con cá đang bơi như là con cá đang bơi mà liên tưởng đến hình ảnh con cá được chiên vàng rộm trên đĩa thức ăn, và nghĩ rằng, bữa ăn ấy sẽ là ngon lắm! Cái sai lệch và biến dạng ấy là do tưởng tri và thức tri bị ám ảnh, bị chi phối bởi ái, nó sẽ đưa đến khổ đau và phiền não; vì trong thập nhị duyên khởi, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, Lão Tử sầu bi… như đã nói ở trển…

– Vâng, dễ hiểu rồi! Vậy thì khi ta nhìn mọi sự mọi vật từ tưởng tri trung thực, từ thức tri trung thực thì cái thấy biết từ đó sẽ phát sanh tuệ tri.

Từ tuệ tri ấy mà tu tập sẽ có tuệ giác!

– Chính xác!

– Khi tu tập thiền minh sát, sư hướng dẫn mọi người ghi nhận các trạng thái đau, nhức, tê, ngứa hoặc khổ lạc, hỷ ưu gì gì đều như thực, ví dụ như niệm nhức à, nhức à… tê à, tê à… chính là để thiết lập, an lập cái như thực để cho tuệ tri xuất hiện?

– Chính xác!

– Thế từ tuệ tri ấy, tu tập ra sao nữa để có tuệ giác?

Đại đức Hộ Tông hơi đắn đo nhưng rồi lại đáp:

– Theo truyền thống kinh điển của Theravāda thì lộ trình tu tập ấy phải bước qua mười sáu cấp độ của tuệ giác. Đi sâu vào chúng thì khá phức tạp nhưng tui cũng có thể nói cô đọng để các bạn dễ nắm bắt. Minh sát là nhìn ngắm, soi chiếu thực tại thân tâm này, ngũ uẩn này; chúng gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Từ lâu, chúng ta lầm tưởng là ta có một cái thực ngã, một cái ta, một linh hồn. Nhưng khi nhìn ngắm như thực do tuệ tri, ta thấy rõ sắc sanh, sắc diệt; thọ sanh, thọ diệt; tưởng sanh, tưởng diệt; hành sanh, hành diệt; thức sanh, thức diệt. Chúng sanh diệt liên tục từng sát-na, từng sát-na. Vậy hóa ra cái thân tâm này nó rỗng không, không có tự tính, không có tự ngã, nó vô thường, biến chuyển, thay đổi liên tục, miên tục. Nói cách khác, ta thấy rõ tính chất vô thường, vô ngã của chúng. Kinh bảo là thấy rõ tam tướng vô thường, khổ, vô ngã của ngũ uẩn, của mười hai duyên khởi là ta sẽ có được tuệ giác.

– Hiểu rồi, chúng tôi hiểu rồi! Nhưng ở trên, sư có nói “theo truyền thống” hoặc “kinh bảo” hóa ra có thể nào có một loại tuệ giác do sự hiện nghiệm và có thể nói ra khác với truyền thống, khác với kinh điển hay sao?

Đại đức Hộ Tông cười:

– Hổng dám đâu! Hổng dám bước ra ngoài truyền thống và kinh điển đâu. Nhưng khi các vị kết tập sư đọc tụng, nhất là ghi chép lại, rồi còn qua chú giải nữa, bao giờ các ngài cũng hệ thống hóa lại, thêm chi thêm phần cho rõ ràng. Nếu người học Phật không có trí tuệ, mang ra áp dụng một cách cứng nhắc sẽ bị rơi vào công thức, phạm trù. Ví dụ, cứ áp dụng như dzậy, tu như dzậy thì được như dzậy. Hóa ra lại rơi vào tiến trình nhân quả. Mà chân lý, sự thực có bao giờ bị gói, bị nhốt ở trong các phạm trù và công thức đâu!

Các cụ đều là bậc trí thức nên đồng gật đầu:

– Phải rồi!

– Phải là nguyên lý chứ không phải là công thức hoặc phương pháp.

– Sự sống vốn phong phú, đa dạng, muôn màu muôn vẻ, dịch hóa đến muôn cùng.

Đại đức Hộ Tông nói:

– Cảm ơn các bạn! Vô cùng cảm ơn các bạn đã hiểu ý tui. Nếu không, có người tối trí, xấu tâm nghe được cuộc đàm thoại này, lại nói tui dám bước qua kinh điển, ở ngoài và ở trên kinh điển thì nguy to! Bên Đại thừa họ có câu: “Y kinh giảng nghĩa, tam thế Phật oan! Ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết” chính là ở chỗ này đây!

Mọi người cùng cười. Rồi hỏi:

– Vậy cái tuệ giác do sư thấy nó thế nào?

Đại đức Hộ Tông thản nhiên:

– Có gì đâu mà nói!

Họ ngỡ ngàng.

– Tại sao?

– Có tại sảo tại sao đâu! Tui ăn thì tui biết tui ăn, tui đi thì tui biết tui đi, tui suy nghĩ thì tui biết tui suy nghĩ… Bây giờ tui biết nói làm sao nữa ha?

– Tôi thấy rồi! Ông Hiểu nói – Đây chính là luôn trực thị, hiện kiến cái đang là! Tuệ giác chính là thấy ngay tức khắc bất cứ pháp nào đang đến với ta. Trọn vẹn với nó, nhất như, không bỉ không thử, không năng không sở…

Đại đức Hộ Tông cười nhẹ:

– Chà! Cao siêu hen!

Ông Hương nói thêm:

– Có phải sandiṭṭhiko (thiết thực hiện tại, thực tại hiện tiền) không?

Ông Quyến nói:

“Cái đang là” luôn là cái akāliko (ngoài thời gian)!

Đại đức Hộ Tông chợt cười tủm tỉm:

– Đấy là các cụ nói chớ không phải tui nói đâu nghen!

 

(Trích: Thắp Lửa Tâm LinhCuộc Đời Ngài Sơ Tổ Hộ Tông)

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH